Ai ai đều đã bằng câu hết
Nước chẳng còn có Sử Ngư!
Đó
là hai câu thơ cuối cùng trong bài thơ cuối cùng của mười bốn bài “Mạn thuật”
mà Nguyễn Trãi đã để lại cho chúng ta. Thật là cay đắng, khi mà mọi người bị
uốn cong như lưỡi câu, và chẳng còn ai nói lên sự thật nữa, chẳng còn ai như Sử
Ngư nữa. Sử Ngư là người chép sử nước Vệ đời Xuân Thu, nổi tiếng về thẳng thắn
và trung thực. Khổng Tử đã từng khen: “Trực tai Sử Ngư!” (Sử Ngư thẳng thay!).
Cho
đến hôm nay, đọc câu thơ Nguyễn Trãi, chúng ta vẫn như tê tái với nỗi đau của
ông. Làm sao có thể sống trong một xã hội mà mọi sự thật đều bị che đậy hay
xuyên tạc. Trong những thời kỳ như vậy, người chép sử, nhà sử học, những người
có nhiệm vụ nói lên sự thật, không biết bị dằn vặt đến thế nào?
Ngày
nay, chúng ta đang sống trong một giai đoạn mà nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ
sự thật là yêu cầu của nhân dân, của đất nước. Đã đến lúc những người chép sử,
những nhà sử học phải tự hỏi rằng: “Sử bút” của mình đã thật nghiêm chưa, đã
viết đúng sự thật lịch sử hay chưa?
Lịch
sử là khách quan. Sự kiện lịch sử là những sự thật được tồn tại độc lập ngoài ý
thức của chúng ta. Nhưng sự nhận thức lịch sử lại là chủ quan. Và người ta chép
sử vì những mục đích khác nhau.
Từ
thời cổ đại, người ta đã đặt yêu cầu cho việc chép sử là nêu gương cho nhân dân
và đem lại bài học cho những nhà cầm quyền. Polibius, nhà sử học Hy Lạp vào thế
kỷ II trước công nguyên, đã nhận thấy rằng sử học có tính pagamtikos, tức thực
dụng. Trong các vị thần Muses Hy Lạp, thì nữ thần Clio là thần sử học. Nhưng
tên Clio là bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là Kleio, nghĩa là ca tụng, biểu dương.
Ở
Phương Đông, Khổng Tử viết kinh Xuân Thu, bộ sử lớn của Trung Quốc cổ đại, là
cốt để “bao biếm”, tức là khen và chê các hành vi của của các nhân vật lịch sử.
Cái mẫu mực sử học thực dụng còn tồn tại rất lâu dài về sau, nhất là ở phương
Đông. Ta hãy đọc những dòng của Phạm Công Trứ trong bài tựa sách Đại Việt sử ký
tục biên: “Vì sao phải viết quốc sử? Vì sử chủ yếu ghi chép công việc. Có chính
trị của một đời tất phải có sử của một đời. Mà sự ghi chép của sử giữ nghị luận
rất nghiêm, tô điểm việc trí trị thì sáng tỏ ngang với mặt trời mặt trăng, răn
đe kẻ loạn tặc thì ráo riết như sương thu lạnh buốt, người thiện biết thì có
thể bắt chước, người ác biết thì có thể tự răn, quan hệ với chính trị không
phải là ít. Cho nên mới làm ra quốc sử”.
Một
mục đích thực dụng như vậy đặt ra cho sử học tất nhiên đã ngăn cản không ít
việc nói lên sự thật lịch sử. Thường thì người ta chỉ chọn chép những sự kiện
nào có lợi cho đường lối chính trị, hoặc là làm thay đổi sự kiện cho phù hợp
với ý muốn của nhà cầm quyền.
Nhưng
ngay trong hàng ngũ các nhà sử học thời cổ, cũng đã có người cho rằng cần làm
thế nào để phục vụ đời sống và chính trị không làm hại đến thiên chức nói sự
thật của nhà sử học. Chẳng những thế, họ còn cho rằng sử có chép đúng sự thật
mới phục vụ tốt cho đời sống và chính trị. Ciceron ở La Mã đã gắn historia
magistra vitae (lịch sử chính yếu của cuộc sống) với yêu cầu đạt tới lux
veritatis (ánh sáng của sự thật). Trong Deoratore, ông đã viết: “Luật thứ nhất
của chép sử là không dám nói cái giả mạo, luật thứ hai là dám nói tất cả những
gì là sự thật”.
Còn
Lê Quý Đôn của chúng ta, ở đầu tập Đại Việt thông sử, đã dẫn một loạt các câu
nói của các nhà sử học đời trước để coi của các nhà sử học đời trước để coi
việc chép đúng sự thật như một tôn chỉ của việc soạn sử. Và để giữ được tôn chỉ
đó, cuối cùng, ông đã chép lại câu của Yết Hề Tư đời Nguyên: “Việc soạn sử phải
lấy việc dùng người làm gốc. Người có văn học mà không biết cách chép sử thì
không thể cho dự vào sử quán. Người có văn học, lại kiêm biết cách soạn sử,
nhưng bụng dạ bất chính, cũng không được dự”.
Từ
thế kỷ XVII, sử học thế giới đạt đến mẫu mực phê phán, đặt yêu cầu đem lại sự
thật của quá khứ. Và từ cuối thế kỷ XIX, khi sử học đạt tới các mẫu mực cấu
trúc và biện chứng, các hình ảnh của quá khứ mà sử học khôi phục được còn phải
được đặt trong cái toàn thể và sự vận động.
Từ
khi chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử mácxít ra đời, khám phá ra cơ chế
của sự phát triển xã hội, các nhà sử học được cung cấp một mô hình giải thích
lịch sử có tính nhất thể - năng động, kết hợp cả hai mặt cấu trúc và biến đổi.
Sử học vươn tới phát hiện quy luật và nhờ đó, sử học không những nhận thức được
quá khứ mà còn chuẩn bị cho những khả năng dự báo. Nhưng sử học muốn thực hiện
được những chức năng đó, khảo sát con đường đã qua và góp phần nhận thức con
đường sắp tới, một điều kiện cơ bản là phải biết sự thật và nói lên sự thật.
Nhưng
biết sự thật không dễ, và dám nói lên sự thật nhiều khi càng khó hơn. Với ý của
Yết Hề Tư mà Lê Quý Đôn đã dẫn nhưng nói theo ngôn ngữ hiện đại thì như thế
này: Muốn viết sử, phải biết phương pháp sử học, và trước hết, phải là người
trung thực chứ không phải là tên cơ hội.
Viết
sử là một nghề, nói như người Pháp là métier d’historien. Người viết sử phải
được luyện rèn tay nghề. Các sách dạy nghề, tức các sách viết về phương pháp sử
học, thường nói đến hai bước cơ bản trong công tác sử học: bước thứ nhất là từ
sử liệu, khôi phục sự kiện, bước thứ hai là giải thích và đánh giá sự kiện.
Ngay
từ bước thứ nhất, đã có những khả năng dẫn nhà sử học xa rời sự thật. Đó là vì
sử liệu thiếu, và phổ biến hơn, vì sử liệu không được phê phán nghiêm túc.
Người ta chia sử liệu ra làm hai loại: sử liệu trực tiếp và sử liệu gián tiếp.
Sử
liệu trực tiếp xuất hiện cùng thời với sự kiện. Chẳng hạn trống đồng Ngọc Lũ,
khẩu pháo Điện Biên, hay văn bản Hiệp nghị Paris…là sử liệu trực tiếp.
Còn
sử liệu gián tiếp là sử liệu nói đến sự kiện này qua một người thông tin gián
tiếp, tức tác giả sử liệu. Loại sử liệu này cần được giám định cẩn thận, vì
thông tin nhận được đã qua trung gian người thông tin. Chẳng hạn hồi ký là sử
liệu gián tiếp. Ở đây, các sự kiện xảy ra không đồng thời với sử liệu, tức là
trước lúc hồi ký được viết. Nhà sử học Liên Xô M.N.Tchernomorski đã viết cả một
quyển sách dày, có đầu đề Hồi ký với tư cách là sử liệu lịch sử, để trình bày
các phương pháp nghiên cứu nguồn sử liệu gián tiếp này.
Hiện
nay, nhiều công trình sử học của chúng ta đã sử dụng những nguồn sử liệu gián
tiếp một cách thiếu thận trọng. Sử liệu gián tiếp bao gồm cả những lời kể về
sau của những người đã chứng kiến sự kiện. Các nhà nghiên cứu lịch sử địa
phương hay lịch sử hiện đại, lịch sử Đảng thường sử dụng nguồn tài liệu này.
Những lời kể như vậy cần được phân tích so sánh với các sử liệu khác, nếu không,
dễ dẫn đến tình trạng là cùng một sự kiện, có thể được trình bày rất khác nhau.
Tình hình thường xảy ra là nếu người thông tin là người hiện có uy lực chi phối
ở địa phương thì lịch sử sẽ được viết theo cách nhìn nhận của người đó.
Đối
với các thời kỳ xa xưa, sự sai lầm càng dễ xảy ra, vì sử liệu càng hiếm hơn,
khó kiểm tra hơn. Trong nhiều trường hợp để khôi phục sự kiện, nhà sử học phải
vận dụng đến sự suy đoán logic, và thậm chí, cả sự tưởng tượng. Nhưng trong
trường hợp sự kiện được trình bày mới chỉ là giả thuyết, thì điều đó phải được
nói rõ, đừng để người khác tin rằng đó đã là sự thật đích xác. Trong nhiều công
trình sử học hiện nay, cái mới chỉ là giả thuyết với cái đã là sự thật, thường
bị làm lẫn lộn.
Chẳng
hạn, không một nhà sử học nào có thể chứng minh được rằng bài thơ Nam quốc sơn
hà Nam đế cư là của Lý Thường Kiệt. Không có một sử liệu nào cho biết điều đó
cả. Sử cũ chỉ chép rằng trong trận chống Tống ở vùng sông Như Nguyệt, một đêm
quân sĩ nghe tiếng ngâm bài thơ đó trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát. Có
thể đoán rằng Lý Thường Kiệt đã cho người ngâm thơ. Đi xa hơn, có thể đoán rằng
Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ. Nhưng đó chỉ là đoán thôi, làm sao nói chắc
được bài thơ đó là của Lý Thường Kiệt. Thế nhưng, cho đến nay, mọi người đều
tin rằng đó là sự thật, hay đúng hơn, không ai dám nghi ngờ đó không phải là sự
thật.
Ta
còn có thể dẫn ra nhiều ví dụ khác về những sự kiện chắc là không thật, thậm
chí không thật mà nay nghiễm nhiên là “sự thật”, ngay cả trong các giai đoạn
lịch sử gần đây.
Các
nhà sử học thường dựa chủ yếu vào nguồn sử liệu viết. Mà nước ta, các văn bản
sử liệu thường bị biến chuyển ghê gớm. Đó là chưa kể sự xuất hiện những tài
liệu giả. Nếu trình bày sự kiện mà dựa vào sử liệu đã bị biến đổi hay sử liệu
giả thì hiển nhiên không tránh khỏi sai lầm.
Chẳng
hạn, quyển Binh thư yếu lược hiện có, được coi là của Trần Hưng Đạo, là một
quyển sách giả từ đầu chí cuối. Các nhà nghiên cứu ở Viện Hán Nôm vừa làm một
việc có ý nghĩa là chứng minh được quyển sách giả mạo đó đã hình thành như thế
nào. Thế nhưng khi viết về cuộc kháng chiến chống Nguyên hay về Trần Hưng Đạo,
một số người vẫn dùng quyển sách giả này. Thậm chí có lãnh tụ đã trích dẫn sách
này trong diễn văn của mình. Đó cũng là lỗi của các nhà sử học, họ đã không
thuyết minh đầy đủ khi cho in bản dịch tác phẩm giả mạo này.
Còn
các văn bản bị biến đổi, sửa chữa qua các đời thì rất nhiều. Thậm chí cả các
văn bản hiện đại. Ngay bức thư của chủ tịch Hồ Chí Minh gửi các em học sinh mà
hiện nay trong các trường phổ thông vẫn học, vẫn trích, cũng đã sai, khác quá
nhiều với văn bản đầu tiên còn được cất giữ ở Cục lưu trữ trung ương. Các văn
kiện khác cũng vậy. Về điểm này, cần học tập thái độ của Mác và Ăngghen khi cho
xuất bản Tuyên ngôn Đảng cộng sản năm 1872, hai ông viết rằng: “Tuyên ngôn là
một tài liệu lịch sử mà chúng tôi không có quyền sửa lại”. Các nhà sử học đòi
hỏi phải có một thái độ như vậy đối với các văn kiện lịch sử.
Trên
đây là chuyện phê phán sử liệu và miêu tả sự kiện. Thực ra sự thật dễ bị che
lấp hay xuyên tạc là ở bước thứ hai, giải thích và đánh giá sự kiện. Đó là vì
công việc này phụ thuộc nhiều vào mặt chủ quan của nhà sử học như nhận thức,
quan điểm và nhân cách.
Các
nhà sử học chúng ta thường tự coi là người mácxít nhưng bệnh thiên lệch lại hay
dễ mắc. Mà thiên lệch, cường điệu một cách phiến diện một mặt nào đó, lại là
đặc trưng của chủ nghĩa duy tâm. Cũng chính vì vậy nhiều sự thật lịch sử đã bị
bỏ qua.
Trong
một thời gian dài, do một động cơ tốt là phải tập trung tinh lực cho cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước, các nhà viết sử chỉ chú ý đến các trang sử chống
ngoại xâm trong lịch sử dân tộc. Không chỉ trong các công trình chuyên luận, mà
cả trong các bộ thông sử, cũng chỉ tập trung khai thác truyền thống đánh giặc,
giữ nước. Một nhà sử học Liên Xô, khi bình luận một quyển sử Việt Nam do Uỷ ban
Khoa học xã hội xuất bản, đã có một nhận xét thú vị là các bản đồ trong sách,
trừ một bản đồ hình thế chung, đều là bản đồ các trận đánh. Trong thời gian
qua, hàng loạt các vấn đề về kinh tế - xã hội của lịch sử Việt Nam đã không
được chú ý đầy đủ.
Cũng
là đề cao truyền thống, chúng ta thường chỉ đánh giá một chiều, chỉ nhìn thấy
cái hay cái tốt, dường như người ta không chấp nhận có truyền thống xấu. Đến
nay, trong công cuộc xây dựng đất nước, chúng ta đang cần đánh giá đúng đắn về
con người Việt Nam mà phần lớn là tính cách, khả năng đã được quy định qua lịch
sử. Phải phân tích trung thực và khoa học các ưu điểm và nhược điểm của con
người Việt Nam, chứ không phải cái gì cũng khen.
Chúng
ta đã được đọc cả một quyển sách dày đề cao truyền thống khoa học - kỹ thuật
Việt Nam. Tôi nghĩ rằng trong lịch sử, nhân dân Việt Nam cũng đã đạt được một
số thành tựu về kỹ thuật. Nhưng đề cao quá đáng truyền thống khoa học kỹ thuật
của người Việt Nam xưa thì là một sự tô hồng không thật. Vả lại, đề cao ông
nghè Vũ Hữu cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI đã tính đủ số gạch xây tường không
thừa thiếu một viên, khi trên thế giới, không phải chỉ ở châu Âu (thời
Copernic) mà cả ở A-rập (thời Al Kashi) đã có những công trình toán học cao,
thì chỉ là làm một việc lố bịch.
Rồi
người ta lại đề cao cả những truyền thống của làng xã cổ truyền, nhấn mạnh tính
dân chủ của nó. Không hiểu vì sao các nhà sử học tự coi mình là mácxít lại có
thái độ “dân tuý” đến như thế. Ngày nay, khi cái cung cách, cái tâm lý “việc
làng” đang khoác áo xã hội chủ nghĩa đi giữa chúng ta, các nhà sử học phải xem
xét lại thái độ của mình trong việc đánh giá cao làng xã cổ truyền.
Lịch
sử Việt Nam anh hùng thật, vinh quang thật, nhưng trình bày nó lúc nào, chỗ nào
cũng tốt đẹp cả, rực sáng cả thì quả là không thật. Nhà sử học không thể chỉ
ngâm ngợi những thiên anh hùng ca mà không biết đến những khúc bi ca trong lịch
sử.
Cũng
thường thiên lệch, khi chúng ta đánh giá các nhân vật lịch sử. Con người là cả
một hệ thống những mối liên hệ phức tạp, bị quy định bởi các điều kiện xã hội,
tự nhiên và lịch sử. Thiếu một sự đánh giá xuất phát từ chủ nghĩa lịch sử dường
như là căn bệnh chung của chúng ta. Một số người đã chê trách các nhân vật lịch
sử vì họ không giống ta. Một số lại quá yêu các nhân vật đó, đến chỗ miêu tả tư
duy và hành động của họ cứ y như là họ đã được học tập chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đã
là con người, không phải là ông thánh, thì có lúc đúng, lúc sai. Đó là chuyện
thường tình. Nhưng thật là không công bằng khi chỉ vì khuyết điểm của thời kỳ
này, ta sổ toẹt hết cả công lao của nhân vật đó, khi ở thời kỳ khác, đóng góp
của người đó là rõ ràng, không thể chối cãi. Nhà sử học Mácxít không thể chấp
nhận một thái độ như vậy. Tại sao chúng ta không noi gương Lênin trong việc
đánh giá nhân vật như Plêkhanốp?
Chúng
ta hãy nhớ lời Mác: “Khoa học càng vô tư và không thiên vị thì càng phù hợp với
quyền lợi và nguyện vọng của người công nhân”. Một nền sử học muốn tự biểu hiện
là mácxít chân chính, chẳng những phải đặt cho mình nhiệm vụ khám phá chân lý
của lịch sử, mà còn phải tỏ rõ khả năng đạt được sự thật khách quan.
Cho
đến nay, nhiều học giả tư sản vẫn nghi ngờ tính khách quan của sử học. Ngay
người bạn của chúng ta là Bertrand Russell cũng nói rằng: “Sử học chỉ là dẫn ra
những ngu xuẩn ngày hôm qua để giúp con người chịu đựng được những ngu xuẩn
ngày hôm nay”.
Chúng
ta phải bác bỏ những luận điểm đó bằng cách chứng minh rằng nền sử học của
chúng ta có khả năng đạt được sự thật khách quan, chứ đừng tiếp tục góp thêm
chứng cứ cho những luận điểm đó.
Nguồn: Tạp chí Tổ quốc, tháng giêng, 1988.
In lại trong: Một số vấn đề Lý luận Sử học, Nxb
ĐHQGHN, 2007
Người sưu tầm: Nguyễn Cường Thịnh
Người sưu tầm: Nguyễn Cường Thịnh
Nhận xét
Đăng nhận xét