Trang phục quan lại
2) Triều phục quan lại
3) Thường phục quan lại
Thời Tiền Lê, vị
vua cuối cùng là Lê Long Đĩnh đã cải cách trang phục học theo lối nhà Tống
đương thời.
Nhà Lý thay thế
vẫn tiếp thu đường lối này, nên có thể nói trang phục quan chức thời Lý có nét
giống nhất định với trang phục Đường - Tống.
Cứ theo quy chế
quan phục Đường - Tống thì quan chức có 3 loại áo:
Lễ phục: Mặc
trong các ngày triều hội, lễ lạc quan trọng...
Triều phục: Mặc
trong các buổi đại triều bàn việc quan trọng và các lễ lạc loại nhỏ.
Thường phục: Mặc
trong các buổi thiết triều bình thường, mặc tại nơi làm việc, trong làm việc
thường ngày.
Còn tiện phục mặc
khi không phải làm việc thì thích gì mặc nấy, kể cả đóng khố cởi trần.
1) Lễ phục quan lại
1) Lễ phục quan lại
Trong phần Lễ
phục cho hoàng đế trước, mình có viết Cổn Miện là trang phục tối cao của hoàng
đế.
Nhưng đúng ra
phải nói là Cổn Miện là trang phục tối cao của triều đình phong kiến vì không
phải Hoàng đế mới có Cổn Miện mà các thân vương đại thần cũng có, dĩ nhiên Cổn
Miện của quan chức không thể bằng Cổn Miện của Hoàng đế được.
Ví dụ theo quy
chế Đường - Tống thì tước Vương cũng có Cổn Miện nhưng mũ miện không được phép
có 12 dây lưu 12 viên ngọc mà chỉ có 9 dây 9 ngọc, hoa văn cũng chỉ được trang
trí có 9 cấm được 12.
Theo quy chế
nhà Trần chỉ hoàng để và quan từ đại liêu (khoảng tam phẩm) trở lên mới được mặc
Cổn Miện.
Nhà Nguyễn thì
quy định chỉ chức quan từ chính tam phẩm trở lên mới được mặc Cổn Miện..
Ghi chép duy nhất
về Lễ phục thời Lý có liên quan là "Đại Việt Sử ký Toàn
thư" năm 1206 vua Lý Cao Tông :"Cho Đàm Dĩ Mông làm Thái Bảo cho
phép đội mũ Củng Thần" .
Mũ Củng Thần là
loại mũ tế lễ thời Tống.
Như vậy suy ra
quan chức thời Lý có 2 loại lễ phục Cổn Miện và Củng Thần có điều do tư liệu
không có đủ nên cách dùng, hình dáng... ra sao không thể biết.
Ngay như trong
sách "Ngàn năm áo mũ" cũng không khảo cứu nổi nên mình chỉ
có thể nói tới đây thôi.
2) Triều phục quan lại
Như đã nói, nhà
Lý học quan phục theo lối nhà Tống vì vậy triều phục được dùng sẽ là bộ trang
phục Lương Quan (梁冠)
nó bao gồm:
a) Mũ Lương Quan (梁冠)
a) Mũ Lương Quan (梁冠)
Mũ Lương Quan
hay còn gọi là Mũ Tiến Hiền (進賢冠)
Sở dĩ được gọi
là Lương Quan vì mũ này có các viền (lương) trên mũ, tùy theo cấp bậc thì sẽ có
bấy nhiêu viền, cao nhất là có 9 viền cho cấp vương, nhất phẩm 7 viền, thấp nhất
là 1 viền.
Hình 1.Mũ Lương Quang
nhìn ở 3 mặt
Hình 2.Mũ Lương Quang nhìn ở 2 mặt
Hình 3.Mũ Lương Quan
trong "Tam tài đồ hội"
(ảnh trên là loại 7 viền, ảnh dưới là loại 1 viền)
Hình
4. Hiện vật mũ Lương Quan thời Minh trưng bày tại Khổng Phủ (nhìn ở 3 mặt)
Hình 5. Phục dựng mũ
Lương Quan đi với lễ phục Chu y
Tại nước ta thời
Lý "Đại Việt Sử ký Toàn thư" có ghi nhận rằng: "Năm
1129, vua Lý Thần Tông cho Lý Tử Khắc làm Khu mật sứ, liệt vào trật minh tự, được
đội mũ Thất Lương Quan (Mũ Lương Quan có 7 viền) ".
Có thể thấy nhà
Lý đã học chế độ của nhà Tống vì theo quy chế nhà Tống: Khu mật sứ, Thái tử Thái
bảo, liệt vào đệ nhị đẳng đều được đội mũ Thất Lương Quan.
Ngoài ra còn một
thứ nữa cũng cần phải chú ý đến đó là Lung Cân (笼巾).
Hình 6. Lung Cân
trong "Tam tài đồ hội"
b) Lung Cân (笼巾)
Lung Cân là loại
mũ phụ kiện được làm bằng mây phết sơn đen thường được dùng để bọc bên ngoài mũ
Lương Quan, thêm đó Lung Cân được trang trí con ve bên trên, 2 cánh mũ mỏng nhẹ
như cánh ve sầu nên có tên khác là mũ Điêu Thiền (Xác ve).
Hình 7. Lung Cân trong
phim “Tân Thủy Hử” (2011)
Hình 8.Chân dung Xương
Bình Hầu Dương Nghiệp nhà Bắc Tống mặc triều phục
đội mũ Lương Quan bọc Lung Cân
Hình 9.Chân dung Tể tướng Hàn Kỳ nhà Bắc Tống mặc triều phục đội
mũ Lương Quan bọc Lung Cân
Theo quy chế
nhà Tống chỉ có Tể tướng, thân vương, quan đến chức Tam sư và Tam công mới được
đội Lung Cân.
Nhà Lý học theo
nhà Tống về quan phục nên rất có khả năng Lung Cân cũng được dùng tuy nhiên do
chưa có sử liệu xác thực nên xin ghi thêm để tham khảo.
c) Chu y (朱衣), Chu thường (朱裳)
c) Chu y (朱衣), Chu thường (朱裳)
Theo quy định của
nhà Tống thì 3 loại mũ Lương Quan, Lung Cân, Giải Trãi luôn phải mặc cùng với
Chu y (Áo đỏ), Chu thường (Thường Đỏ).
Quy chế của Chu
Y, Chu Thường theo "Trung Quốc phục trang sử" là: "Áo
bào và thường may bằng lụa đỏ, bên trong mặc áo lót trung đơn bằng lụa trắng, thắt
đại đới, rồi thắt cách đới, quây tế tất bằng lụa đỏ, đeo phương tâm khúc lĩnh,
cầm hốt, đi tất may bằng lĩnh trắng, giày da đen".
Hình 10.Phục dựng trọn
vẹn bộ trang phục Lương Quan đi với Chu y, Chu thường
Hình 11. Tranh vẽ
"Thần y" Hur Jun (Hứa Tuấn ) mặc triều phục Lương Quan
Hình 12.Chân dung
Trinh Tĩnh Công nhà Minh mặc triều phục Lương Quan
Tại nước ta bộ
triều phục Lương Quan này được dùng dưới thời Tiền Lê - Lý , thời Trần - Hồ
không được dùng, tới thời Hậu Lê và Tây Sơn được dùng tiếp nhưng với vai trò là
lễ phục cho các quan, sang thời Nguyễn thì không dùng nữa.
3) Thường phục quan lại
a) Mũ Phốc Đầu (幞頭冠 - Phốc Đầu Quan)
Mũ Phốc Đầu hay
chúng ta còn gọi nôm na là mũ cánh chuồn. Thường phục thời Lý thời Thái Tổ,
Thái Tông vẫn theo quy tắc nhà Tiền Lê. Sang tới năm 1059, Lý Thánh Tông đổi
quy chế theo nhà Tống.
Mũ Phốc Đầu có
nguyên gốc từ thời Đường, ban đầu là một dạng khăn vấn mềm, sau khi vấn lên đầu
sẽ buông 2 dải khăn xuống gọi là "Chiết thượng cân".
Hình 13. Mũ Phốc Đầu thời Đường có dạng khăn vấn
Hình 14.Tranh chân
dung Thi tiên Lý Bạch vấn khăn Phốc
Quy định nhà Đường
chỉ có vua mới được dùng mũ có 2 cánh chuồn cứng.
Hình 15. Tranh chân dung Đường Duệ Tông Lý Đán
Sang tới đời Tống,
Phốc Đầu được chuyển sang dạng vuông cứng với 2 cánh chuồn, 2 cánh này có khung
thường bằng sắt hay tre, có các dạng khác nhau như cánh thẳng (trực cước) ,
cánh gập (cục cước), hai cánh vắt chéo nhau (giao cước), hai cánh chĩa thẳng
lên trời (triều thiên), 2 cánh cong chếch lên trên (thuận phong)
Hình 16.Mũ Phốc Đầu
trong "Tam tài đồ hội"
Mũ Phốc Đầu thời
Tống chủ đạo là loại mũ trơn không hoa văn, dáng vuông cánh chuồn thẳng thuôn
dài, được quy định là mũ đội bắt buộc cho bách quan.
Hình 17.Chân dung Tể
tướng Vương An Thạch nhà Bắc Tống đội mũ Phốc Đầu
Hình 18. Chân dung Tư
Mã Quang thời Bắc Tống
Tại nước ta, Phốc
Đầu được dùng làm mũ thường triều cho quan lại từ nhà Lý tới tận năm 1300 Trần
Anh Tông phế bỏ chuyển sang dùng mũ Đinh Tự
tới cuối thời Lê Thái Tông nhà Hậu Lê mới được khôi phục lại nhưng không
còn phỏng theo dạng Phốc Đầu nhà Tống nữa mà là phỏng theo dạng Phốc Đầu nhà
Minh.
Nhà Lý áp dụng
quan phục của nhà Tống tức là về đại thế cũng là kiểu Phốc Đầu có cánh thuôn
dài tuy nhiên cái khác biệt lớn nhất của Phốc Đầu nhà Lý được trang sức rất nhiều
hoa văn vàng bạc, đá quý lên trên chứ không phải là dạng Phốc Đầu trơn.
Đây không chỉ
là đặc điểm của nhà Lý mà là đặc điểm xuyên suốt của các triều đại nước ta, đó
chính là chỗ tiểu dị trong cái đại đồng.
b) Bào phục
b) Bào phục
Trong "Lĩnh
Ngoại đại đáp" có miêu tả sứ thần Lý sang nhà Tống mặc áo tía.
Phan Huy Chú
cũng ghi nhận chế độ quan phục của nhà Lý giống nhà Tống, tức là quan lại lấy
màu tía (tím) là cao nhất, dưới là đỏ, dưới nữa là xanh lá, rồi tới xanh biếc,
cuối cùng là xanh nước biển.
Bào phục của bá
quan thời Tống là dạng áo cổ tròn, không có hoa văn, phân biệt phẩm trật qua
màu sắc, nếu có hoa văn thì chỉ được thêu chìm chứ không thêu nổi.
Hình 19.Tranh vẽ Tể tướng
Hàn Thác Trụ thời Nam Tống
Về chất liệu
may áo, “Đại Việt Sử ký Toàn thư” cho biết “năm 1040 Lý Thái Tông đã
dạy cung nữ dệt gấm vóc, ban hết gấm vóc nhà Tống trong kho để may áo cho các
quan, quan từ nhất tới ngũ phẩm được mặc áo bào gấm, từ lục tới cửu phẩm mặc áo
bằng vóc”.
Năm 1044, các
quan có công thảo phạt Chiêm Thành lại được ban thưởng áo bào, từ nhất tới lục
phẩm áo bằng gấm, thất đến cửu phẩm bằng là.
Qua đó có thể
thấy nhà Lý có quy chế quan từ nhất tới ngũ phẩm áo làm bằng gấm, từ lục tới cửu
phẩm bằng vóc hoặc là.
Bên cạnh bào phục
và mũ Phốc Đầu, quan lại còn có các phụ kiện:
c) Đai lưng
Hình 21.Đai ngọc thời
Minh
d) Hốt (笏)
Nguồn gốc của hốt
là một thứ đồ được làm bằng gỗ, tre các quan lại ghi những điều cần tâu vào đó
cho khỏi quên lúc lên triều theo đó mà tâu bày.
Sau này hốt trở
thành vật phụ kiện trang trí thể hiện thứ bậc, địa vị được làm bằng ngọc, ngà,
vàng, bạc.
Hình 22.Tranh vẽ Quách
Tử Nghi đời Đường (cái ông ấy cầm trong tay là hốt)
Hình 23.Hốt thời Tống
e) Ngư đại (魚袋)
“Tống sử” cho
hay Ngư đại khởi nguồn từ thời nhà Đường, ban đầu được dùng như một loại thẻ an
ninh, các quan lại được cấp 2 thẻ ngư đại, đeo ở 2 bên hông buộc vào đai lưng,
trên ghi thông tin cá nhân. Khi vào cung xuất trình một cái ngư đại bên này, ra
cung lại xuất trình cái ngư đại bên kia.
Sang đến thời Tống,
Ngư đại trở thành đồ trang sức dùng để thể hiện đẳng cấp, phân biệt sang hèn.
Ngư đại thời Tống
được khắc hình con cá chất liệu là vàng, bạc, ngọc ...và thường chỉ có quan văn
đeo.
Hình 24.Ngư đại thời Tống
Hình 25. Ngư đại Nhật
Bản
(Không phải Ngư đại nào cũng có hình con cá mà có loại chỉ
khắc hình cá lên trên thôi)
Cách dùng ngư đại của Nhật
Bản cũng như các nước Á Đông khác đều là buộc vào đai lưng ở bên hông.
Triều đình thời Lý - Trần
cũng như Đường - Tống cũng có lệ coi Ngư đại như một tặng phẩm ban thưởng cho
các quan có công.
Trong "An Nam
Chí lược" của Lê Tắc có chép rằng dịp đại lễ "quan văn đeo
Kim Ngư, quan võ không đeo". Phan Huy Chú trong "Lịch triều hiến
chương loại chí" cũng viết: "Theo Văn kim thạch (Tức bia
đá) còn lại, các quan triều Lý phần nhiều được ban áo đỏ - Ngư đại, Kim Ngư đại
thì biết thời bấy giờ noi theo chế độ nhà Tống. Quy chế Ngư đại không biết đến
thời nào không dùng nữa".
Tuy nhiên Phan Huy Chú viết
trong "Lịch Triều hiến chương loại chí" như vậy cũng chưa hẳn
chính xác vì trong "Đại Việt thông sử" của Lê Quý Đôn vẫn
ghi nhận khoảng từ năm 1426 tới 1460 Lê Lợi vẫn ban cho các công thần Kim Ngư.
Người sưu tầm: Đỗ Xuân Giang



























Nhận xét
Đăng nhận xét