Chuyển đến nội dung chính

12 CHUYÊN ĐỀ CỦA CLB LỊCH SỬ NƯỚC NHÀ (PHẦN 2)


Chuyên đề 7: Trường chinh kháng Mỹ cứu nước
“ Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai …” (Tố Hữu)
Có thể nói cuộc trường chinh 20 năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước là một trong hai cuộc kháng chiến thần thánh nhất trong lịch sử của dân tộc. Không một giai đoạn nào của lịch sử lại ghi dấu nhiều những cuộc chia ly, những lời hứa không thể thực hiện được, những ước nguyện đến cuối đời vẫn không thể hoàn thành, những chiến công, hiển hách của lòng người, của tình quân dân trước những vũ khí hiện đại tối tân của một trong hai siêu cường lớn nhất trên thế giới.
Đó vừa là một giai đoạn bi thương của cả dân tộc, hàng triệu sự hi sinh, mất mát không gì bù đắp được trong mỗi gia đình người Việt Nam, vừa là giai đoạn hùng tráng của cả đất nước, hàng vạn chiến công, trận đánh chiến thắng giặc Mĩ xâm lược và bè lũ tay sai, hàng vạn trận đánh làm lung lay chính quyền tay sai, phá sản mọi kế hoạch, chiến lược của những cố vấn bậc thầy từ Lầu Năm Góc, … Song trong cuộc trường chinh 20 năm không ngơi nghỉ ấy, vì lý tưởng hòa bình, vì mục tiêu đoàn viên gia đình, hết cảnh “kẻ Bắc người Nam” ấy trong mỗi gia đình, vẫn có không ít những điều bị xuyên tạc, chống phá, hòng làm mất đi tính chính nghĩa của một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, hòng biến tướng cuộc trường chinh đầy xương máu ấy của dân tộc Việt Nam thành một cuộc nội chiến, không có bàn tay đế quốc chủ nghĩa, gây thêm thù hận giữa lòng người trong một dân tộc, một gia đình mà dấu ấn của nó vẫn chưa thể xóa nhòa hoàn toàn sau nửa thế kỉ.
Chính vì lí do ấy, để làm rõ hơn những mảng tối, chưa sáng tỏ của lịch sử nước nhà trong cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, Ban Biên tập câu lạc bộ Lịch sử nước nhà đã quyết định chọn “Trường chinh kháng Mĩ cứu nước” là một chuyên đề trong tháng 7 – ghi dấu mùa hè đỏ lửa 1972 tại thành cổ Quảng Trị, ghi dấu mùa hè đỏ lửa thanh niên gác bút nghiên rời giảng đường đại học lên đường ra tiền tuyến, mùa hè đông thanh niên xung phong lên đường ra trận nhất trong tất cả 20 mùa hè kháng Mĩ cứu nước, mùa hè của những Truông Bồn, ngã ba Đồng Lộc, thành cổ Quảng Trị, v.v.

Chuyên đề 8: Hào khí Đông A
Đông A là từ chiết tự dùng để chỉ nhà Trần. Khi nói đến đó, các bạn đã  hình dung ra 1 triều đại với võ công oanh liệt bậc nhất trong lịch sử Việt Nam với 3 lần đánh thắng quân Mông-Nguyên (1258, 1285 và 1288)  - đạo quân hùng mạnh bậc nhất thế giới trong thế kỉ XIII.
Và khi tìm hiểu về nhà Trần chúng ta cần lưu ý đến những vấn đề sau:
Thứ nhất, đó là về trang phục dân gian và trang phục cung đình thời Trần. Nó có điều gì biến đổi và đặc sắc so với thời Lý và Trung Hoa hay không?
Thứ hai, về tổ chức quan lại và bộ máy thời Trần (1225 - 1400) có gì giống và khác so với thời Lý (1009 - 1225)
Thứ ba, hình luật thời kỳ này còn mang tính “thân dân” và “quân chủ Phật giáo” hay không
Thứ tư,  trong hoàn cảnh nhà Nguyên từng bước xâm chiếm Trung Hoa thì có sự giao thoa văn hóa nào giữa nhà Nguyên và Trần
Thứ năm,  đó là về những danh nhân và đây đặc biệt là thời kì nở rộ của những vị tướng và danh nhân Việt Nam.
Như vậy, các bạn có thể thấy đây là 1 chuyên đề hay và thú vị cho những ai đam mê về thời Trần – một triều đại có nhiều chuyện để tranh luận.

Chuyên đề 9: Trăm năm Pháp thuộc
Tiến trình lịch sử Việt Nam trước năm 1858, lãnh thổ “Lạc Hồng” phần nhiều luôn bị các triều đại phương Bắc xâm phạm bờ cõi và đô hộ. Nhưng đến năm 1858, nước ta lại bị một đế quốc phương tây xâm lược và khai hóa “văn minh”. Suốt trăm năm Pháp thuộc này có nhiều vấn đề hay để ta khám phá như:
-            Trang phục quý tộc,thượng lưu thời Pháp thuộc
-            Trang phục dân gian thời Pháp thuộc
-            Bộ máy quan lại chính quyền và khoa cử thời Pháp thuộc
-            Tục cưới hỏi, ma chay, tang chế, sinh hoạt dân gian thời Pháp thuộc
-            Giao thoa văn hóa thời Pháp thuộc
-            Hình luật-pháp chế thời Pháp thuộc
-            NGÀY NÀY NĂM XƯA (1/9&22/9)

Chuyên đề 10: Kỷ nguyên Đại Việt
Năm 1009, Lý triều Thái Tổ Thần Vũ Hoàng đế, tức Lý Công Uẩn xuống “chiếu dời đô” từ Hoa Lư về Đại La và đổi tên thành Thăng Long đã mở ra cho dân tộc Việt Nam một kỉ nguyên mới trong lịch sử - Kỷ nguyên Đại Việt. Thời kỳ này, nhà nước Đại Việt phát triển mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội cho đến quân đội, luật pháp, khoa học – kỹ thuật.
Ở chuyên đề Kỷ nguyên Đại Việt năm nay, Lịch Sử Nước Nhà sẽ cùng bạn tìm hiểu về Trang phục (cung đình và dân gian) thời Lý; Lễ nghi, phong tục thời Lý; Bộ máy quan lại, Khoa cử và Danh nhân thời Lý; Luật pháp thời Lý; giao thoa văn hóa thời Lý.

Chuyên đề 11:Giao lưu tiếp biến văn hoá Việt Nam và thế giới
Việt Nam là một đất nước đặc biệt, đặc biệt bởi nó gắn liền với những ngã ba. Đấy là ngã ba quan trọng trên tuyến đường hàng hải lớn bậc nhất trên thế giới, tuyến đường biển nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, nối liền Nam bán cầu với Bắc bán cầu, chi phối việc qua lại và giao thương của gần một nửa thế giới với những thị trường tiêu thụ, nguồn tài nguyên khoáng sản thiên nhiên đặc biệt dồi dào như Trung Hoa, Ấn Độ, …
Đó là ngã ba của lịch sử hình thành nhân loại, là vùng đệm của ba cái nôi quan trọng nhất của loài người theo thuyết Đa trung tâm – đó là cái nôi sông Hoàng Hà, cái nôi sông Dương Tử, cái nôi sông Ganga và cái nôi Đông Nam Á. Đó cũng là ngã ba đặc biệt, kết nối quan trọng giữa hai khu vực hải đảo với lục địa của các nước Đông Nam Á. Là nơi đầu tiên các quốc gia hải đảo Đông Nam Á phải đặt chân đến để tiếp xúc, giao thương, học hỏi dễ dàng hơn với những quốc gia Đông Nam Á lục địa khác như Thái Lan, Lào, Cambodia, …
Song chính những vị trí, vai trò “ngã ba” quan trọng ấy của Việt Nam xuyên suốt tiến trình lịch sử đã góp phần tạo nên một tính chất quan trọng điển hình khi nghiên cứu lịch sử văn hóa dân tộc, đó là tính giao lưu – tiếp biến văn hóa. Nằm ở một ngã  ba, vùng đệm của những cái nôi văn minh lớn, tiếp xúc thường xuyên với những nền văn minh xa lạ, cũng như lân cận, Việt Nam phải luôn giữ cho mình được hồn cốt dân tộc, trên nền văn hóa bản địa của người Việt, để hòa nhập không bị “hòa tan”. Đó là vấn đề, là nguồn cội của quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa tích cực đã và đang diễn ra trong suốt quá trình lịch sử phát triển của dân tộc. Nhờ giao lưu – tiếp biến văn hóa có chọn lọc, phù hợp, thích ứng với nền văn hóa bản địa Lạc Việt mà những giá trị văn hóa ngoại lai, tinh hoa văn hóa thời đại có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn, linh hoạt hơn và có chỗ đứng vững chắc hơn trong nền văn hóa dân tộc Việt. Đồng thời, người Việt cũng có cơ hội học hỏi, tiếp cận và gia tăng vốn hiểu biết, kinh nghiệm phong phú, phục vụ quan trọng trong đời sống vật chất lẫn tinh thần của dân tộc mình, từ đó hiểu được những bạn, những đối thủ của mình hơn, qua đó “Biết người biết ta, trăm trận trăm thắng” trước mọi kẻ thù xâm lược phương Bắc lẫn phương Tây.
Chính vì tầm quan trọng đặc biệt có ý nghĩa lịch sử ấy của quá trình giao lưu – tiếp biến văn hóa, đồng thời để giữ gìn – phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thời đại theo đúng tinh thần của Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam là Xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới với hai đặc trưng là tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc, Ban Biên tập câu lạc bộ Lịch sử nước nhà đã quyết định chọn “Giao lưu – tiếp biến văn hóa qua các thời kỳ” ở 4 vùng văn hóa chính của Việt Nam (Tây Bắc, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, Tây Nam Bộ) làm chuyên đề cho các bài viết trong tháng 11.

Chuyên đề 12: 30 năm Đổi mới
Cuộc sống hiện đại, vật chất đủ đầy ngày nay mà bạn và tôi đang hưởng thụ chính là nhờ một phần rất lớn của công cuộc Đổi Mới cách đây hơn 30 năm, Nhờ cải cách Đổi Mới năm 1986 mà nước ta dần đi lên hội nhập và phát triển. Đây là khoảng thời gian mà nảy sinh nhiều vấn đề hay và hấp dẫn mà ta cần tìm hiểu như :
-            Trang phục thượng lưu trước, trong và sau Đổi mới (1976-nay)
-            Trang phục dân gian trước, trong và sau Đổi mới  (1976-nay)
-            Bộ máy nhà nước và giáo dục trước, trong và sau Đổi mới (1976-nay)
-            Giao thoa văn hóa thời Đổi mới
-            Hình luật-pháp chế trước, trong và sau Đổi mới (1976- nay)
-            NGÀY NÀY NĂM XƯA (1/12&22/12)
Xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn.

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Trang phục Triều Trần (1225 - 1400)

Trang phục Hoàng đế Nhà Trần tiếp nối nhà Lý một cách hòa bình nên các di sản và giá trị thời Lý vẫn được học theo cũng như vẫn có sự học hỏi từ nhà Tống bên Trung Quốc. 1) Lễ phục Hoàng đế Lễ phục thời Trần của hoàng đế vẫn là Cổn Miện. Quy chế về căn bản vẫn như thời Lý. Lê Tắc trong "An Nam chí lược" cho biết vua Trần có 4 loại mũ là : Mũ Miện, Mũ Thông Thiên, Mũ Phù Dung và Mũ Phốc Đầu. 2) Triều phục Hoàng đế Theo ghi nhận của Lê Tắc trong "An Nam chí lược" thì vua Trần có bộ triều phục Quyển Vân, đội Mũ Quyển Vân (Quyển Vân Quan - 卷雲冠 ). Tên gọi thực tế của Mũ Quyển Vân là Mũ Thông Thiên ( Thông Thiên Quan - 通天冠 )   nhưng do dáng mũ uốn cong như mây cuốn nên tục gọi là Quyển Vân. Ngô Tự Mục thời Tống cho biết : " Mũ Thông Thiên của vua Tống đều dùng hạt Bắc châu uốn kết lại, còn gọi là Mũ Quyển Vân". Mạnh Nguyên Lão thời Tống cũng mô tả: " Hoàng đế đội mũ Thông Thiên, còn gọi là Mũ Quyển Vân, mặc áo bào đỏ, cầm ngọc khuê". ...

HÌNH ẢNH ÁO CỔN TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM

Hình ảnh áo Cổn đã được ghi chép trong hai bộ sử là Đại Việt Sử kí Toàn thư (thế kỉ XV) và Việt Sử lược ( được xác định là ra đời dưới thời  nhà Trần ) . Cả hai bộ sử đều thống nhất rằng áo Cổn đã xuất hiện từ thời nhà Đinh - Tiền Lê thông qua các chi tiết sau: Đại Việt Sử kí Toàn thư của Ngô Sĩ Liên có đoạn “ Thái hậu (tức Thái hậu Dương Vân Nga - Hoàng hậu của vua Đinh Tiên Hoàng) thấy mọi người đều vui lòng quy phục, bèn sai lấy áo (Long) Cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế. Từ đó Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc năm đầu [980], giáng phong vua làm Vệ Vương. ” Việt Sử lược cũng có cùng chi tiết “Thái hậu thấy lòng người theo phục, sai người lấy áo (Long) Cổn khoác lên mình vua, xin lên ngôi. Năm Canh Thìn (980), vua lên ngôi …” Như vậy, khi xem xét kĩ càng các chi tiết được đưa ra ta thấy cả hai bộ sử đều ghi nhận sự kiện Thái hậu Dương Vân Nga đã lấy áo (Long) Cổn của nhà Đinh khoác lên người Thập Đạo Tướng quân Lê Hoàn vào năm 980,...

Thiên Ninh công chúa

Thiên Ninh công chúa tên thật là Ngọc Tha hoặc Bạch Tha, con gái trưởng của vua Trần Minh Tông và Lệ Thánh hoàng hậu, bà đồng thời là chị ruột của vua Trần Dụ Tông.  Thiên Ninh công chúa là một trong những người phụ nữ có vai trò quan trọng nhất góp phần bảo vệ quyền lực của nhà Trần cũng như nước Đại Việt trong cảnh nội loạn và ngoại xâm.  Khác với những người phụ nữ họ Trần khác như Linh Từ Quốc Mẫu, An Tư công chúa, Huyền Trân công chúa .v.v. những người có tính ôn nhu hơn  và thực hiện nghĩa vụ theo sự sắp đăt của triều đình. Thì riêng bà là người chủ động, mạnh mẽ và quyết đoán hơn cả. Không dừng ở sự hỗ trợ, bà còn là người trực tiếp mưu tính cũng như tham gia chính sự nhằm cứu vãn cơ nghiệp nhà Trần. Đây là một người phụ nữ cá tính khác thường, một người đặt ra ngoài những ràng buộc lễ nghĩa thông thường vì những mục đích lớn hơn. Như việc bà thông dâm với chính em trai của mình là vua Trần Dụ Tông theo bài thuốc chữa bệnh liệt dương cho vua, khiến cho các n...